Trong dịp giao lưu với sinh viên Việt Nam hồi tháng 11-2006, Bộ
trưởng Tài chính Hoa Kỳ Henry Paulson có ba lời khuyên dành cho thế hệ trẻ,
trong đó lời khuyên đầu tiên là hãy luôn coi thay đổi là bạn đồng hành, đừng
bao giờ ngại phải thay đổi. Ông nói thêm, Việt Nam đang trong quá trình phát
triển và thay đổi, nên điều này lại càng quan trọng hơn.
Có lẽ lời khuyên của ông Henry Paulson không
chỉ dành cho 1.000 bạn trẻ trong buổi giao lưu hôm đó. Bởi sau khi nước ta gia
nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), chúng ta phải đối mặt với sự thay đổi
sẽ diễn ra rất nhanh chóng và rộng lớn trong mọi lĩnh vực.
Chuẩn bị về tâm
lý và định hướng hành động
Về mặt tâm lý, đa phần trong
chúng ta rất ngại sự thay đổi. Tuy chúng ta đã đổi mới được hơn 20 năm nhưng
những dấu ấn của nền kinh tế kế hoạch vẫn còn trong cách suy nghĩ cũng như hành
động của nhiều người, nhất là trong các cơ quan nhà nước. Gia nhập WTO là cam
kết thay đổi hàng loạt các chính sách, luật lệ, thể chế kinh tế để phù hợp với
thông lệ quốc tế. Nguyên tắc căn bản của WTO là công khai, minh bạch và không
phân biệt đối xử. Từ nay, những chuyện kiểu “trong nhà ta biết” chắc chắn sẽ
phải theo lộ trình mà xóa bỏ. Chính phủ đã cam kết, và nếu không thực hiện đúng
như vậy, nước ta sẽ bị các nước trừng phạt nặng về kinh tế và lớn hơn nữa đó là
uy tín của quốc gia sẽ sụt giảm. Vì thế lãnh đạo mỗi doanh nghiệp cần chuẩn bị
cho bản thân mình và mọi nhân viên tâm lý sẵn sàng và chủ động cho sự thay đổi.
Ở tầm vĩ mô, Nhà nước phải chủ động đổi mới, cải cách thể chế kinh tế nhằm phát
huy nội lực và hội nhập bên ngoài như ý kiến của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
trong bài viết nhân sự kiện Việt Nam gia nhập WTO. Thay vì lo lắng vì sự thay
đổi thì hãy đón nhận nó, hãy dành mọi tâm trí và sức lực để chế ngự và quản lý
nó.
Chỉ thay đổi nhận thức và quan
điểm không chưa đủ, chúng ta cần tỉnh táo phân tích và đánh giá những gì sẽ chờ
đón mình sắp tới để tìm ra định hướng chiến lược và hành động ngay. Lấy thí dụ
trong lĩnh vực ngân hàng, theo lộ trình cam kết mở cửa ngành dịch vụ tài
chính, ngân hàng, kể từ sau ngày 1-4-2007 ngân hàng 100% vốn nước ngoài được
phép thành lập tại Việt Nam. Và chúng ta chỉ còn năm năm để chuẩn bị trước khi
hàng rào cuối cùng là tỷ lệ huy động tiền đồng sẽ được xóa bỏ hoàn toàn vào năm
2011, khi đó ngân hàng Việt Nam
và nước ngoài hoàn toàn bình đẳng. Liệu trong năm năm tới đây các ngân hàng
Việt Nam
có đủ sức giữ vững mức tăng trưởng hay không? Câu trả lời tạm thời có thể gác
lại sau vài năm nữa, nhưng ngay từ bây giờ các ngân hàng Việt Nam đã phải lo
ngay vấn đề nhân lực rồi. Các ngân hàng thương mại nhà nước trước đây đã luôn
đau đầu vì là “trường đào tạo nhân sự miễn phí” cho các ngân hàng thương mại cổ
phần thì nay đến lượt nhân sự của cả các ngân hàng cổ phần lại cũng là đối
tượng chiêu dụ của các ngân hàng liên doanh và 100% vốn nước ngoài mở ra trong
nay mai. Ngoài ra, ngay từ bây giờ, các ngân hàng Việt Nam cũng nên
nghĩ đến việc sử dụng nhân sự nước ngoài trong thời gian tới cho các vị trí cao
cấp. Tất nhiên để làm được điều này, ngoài vấn đề về mức lương cho các nhân sự
nước ngoài, chúng ta phải vượt qua được các rào cản về ngôn ngữ, thói quen
trong suy nghĩ, tập quán kinh doanh...
Xu hướng các công ty toàn cầu
hiện nay là chỉ sở hữu nhãn hiệu, công nghệ và hệ thống phân phối. Họ chuyển
giao dần phần sản xuất, chế biến, đóng gói - phần lao động “cực nhọc” tốn nhiều
nhân công và diện tích nhất cho những nước đang phát triển để tận dụng lực
lượng lao động, mặt bằng với chi phí thấp. Có thể trong thời gian tới đây, cũng
như trường hợp của Trung Quốc và các nước Đông Nam Á, Việt Nam cũng sẽ là
điểm trú chân của các đại nhà máy, đại công xưởng. Biết rằng đây là công đoạn
khó khăn và có phần giá trị gia tăng thấp nhất, nhưng có lẽ nó là đoạn đường mà
mỗi nước phát triển đều phải trải qua. Vấn đề là tận dụng điều đó như thế nào
để có lợi nhất cho sự phát triển cả trên bình diện quốc gia lẫn doanh nghiệp.
Tập trung nguồn
lực cho thế mạnh
Bên cạnh việc tiếp tục duy trì
những lợi thế cạnh tranh trước mắt, chúng ta cũng cần tìm kiếm cơ hội ở những
mặt mạnh của mình trong hiện tại và tương lai. Một thị trường 85 triệu dân với
hai phần ba trong độ tuổi dưới 30 sẽ là một tiềm năng lớn bổ sung cho đội ngũ
lao động trình độ cao nếu chúng ta đầu tư đúng ngay từ bây giờ. Đào tạo luôn là
vấn đề nhức nhối của chúng ta. Nhiệm vụ của Chính phủ là mở cửa hơn nữa lĩnh
vực đào tạo, chấp nhận sự điều tiết của cơ chế thị trường trong đào tạo kỹ
thuật và đại học. Mục đích là thu hẹp khoảng cách giữa đào tạo và thực tiễn
theo yêu cầu của thị trường. Có thể xem xét mô hình kết hợp đào tạo giữa trường
đại học và các doanh nghiệp với các giảng viên thỉnh giảng chính là những người
đang làm việc thực tế tại các doanh nghiệp.
Ngoài ra, cũng nên tập trung nguồn
lực vào những gì mình mạnh nhất, dũng cảm bỏ bớt, bán đi những gì mình không
mạnh hay chưa đủ nguồn lực để thực hiện tại thời điểm này. Tôi không nghĩ người
Nhật có thể nấu phở ngon hơn người Việt được. Hay không nhẽ người châu Âu lại
làm nước mắm ngon hơn người Việt. Nhưng có điều chúng ta cần chấp nhận, họ có
thể nấu phở không ngon hay pha nước mắm không đạt như chúng ta, nhưng họ có thể
cùng sở hữu hay thậm chí sở hữu hoàn toàn các tiệm phở hay các công ty nước mắm
của chúng ta. Suy cho cùng, trong thế giới toàn cầu hóa điều đó có nghĩa gì,
nếu như nhờ thế phở hay nước mắm Việt Nam có cơ hội được giới thiệu cho
toàn thế giới. Tất nhiên đó chỉ là một vài thí dụ vui, điểm chính yếu ở đây là
mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp cần xác định cho mình thế mạnh mà người khác,
công ty khác khó lòng bắt chước, hay khi họ làm được chúng ta đã vượt lên những
cái khác rồi. Làm được điều này chắc chắn chúng ta không những chỉ tồn tại mà
còn nằm trong số những người hưởng lợi từ toàn cầu hóa.